Cuộc bao vây Cuộc_vây_hãm_Acre_(1291)

Các công cụ bao vây ở Acre năm 1291.

Sultan Qalawun, cha của Khalil, chinh phục Lãnh địa Tripoli năm 1289 và đem quân tiến về phía Acre, thủ đô của những gì còn lại của Vương quốc Jerusalem, nhưng ông đã qua đời chỉ một tháng trước khi cuộc tấn công đước phát động. Trước khi mất, ông đã ra lệnh cho con trai Khalil tiếp tục các cuộc tấn công. Khalil đã gửi tin nhắn cho William của Beaujeu,[6] Trưởng lão Đền Thờ, nói với ông quyết tâm của mình để tấn công Acre và yêu cầu ông ta đừng có gửi sứ giả hoặc quà tặng gì cả.[7] Tuy nhiên, một đoàn sừ thần từ Acre do Sir Philip Mainebeuf dẫn đầu,[8][9] đã tới Cairo,[10] với quà tặng và quốc thư cầu xin Sultan dừng lại cuộc tấn công. Nhưng Khalil không chấp thuận và ra lệnh bắt giam tất cả các sứ giả lại.[11][12]

Người Hồi Giáo hội quân

Sultan Al-Ashraf Khalil ra lệnh tập hợp tất cả các lực lượng ở Ai Cập và Syria lại, trong đó bao gồm một số lượng lớn các chiến binh du mục tình nguyện đứng về phía nhà vua, đánh đuổi những kẻ ngoại giáo ra khỏi Jerusalem,[13] cùng nhiều các công cụ bao vây đến từ thành trì Hisn al-Akrad. Sultan có một số máy bắn đá khổng lồ, được gọi là "Al Mansuri" và "The Furious" bé hơn.[14][15] Bốn đội quân đến từ Damascus (dẫn đầu bởi Lajin), Hama (do al-Muzaffar Taqai ad-Din chỉ huy), Tripoli (do Bilban lãnh đạo) và Al Kark (dưới quyền Baibars al-Dewadar) đã hành quân đến Acre để gia nhập với quân đội đến từ Ai Cập của Khalil.[16][17]

Quân tiếp viện từ Tây Âu

Những người Pháp ở Acre đã nhận thức được mức độ nghiêm trọng của tình hình hiện nay. Họ liên tục yêu cầu sự giúp đỡ từ châu Âu song kết quả lại không có gì đáng kể. Một nhóm nhỏ các hiệp sĩ, trong đó có Otto của GrandsonThụy Sĩ, đã được nhà vua Edward I của Anh thuê tới giúp đỡ quan phòng thủ. Burchard của Schwanden, Đại trưởng lão của Hiệp sĩ Teutonic đã từ chức Konrad von Feuchtwangen, người đột ngột rời bỏ Acre chạy về châu Âu. Chỉ đáng chú ý nhất là vua Henry II ở Síp đả chi tiền củng cố các bức tường thành và gửi lực lượng của em trai của ông, Amalric tới để bảo vệ thành phố.

Hàng phòng thủ của thành phố

Acre có một hàng phòng thủ tốt với hai dòng bức tường dày chạy song song với nhau[18], cùng 12 tháp canh lớn vũng chắc[19] được các vị vua Tây Âu[20] và khách hành hương mộ đạo quyên tiền xây dựng.[21] Trên các bức tường là các bệ phóng và các cẩu đá được đặt ở các vị trí kiên cố nhất, cùng các lỗ châu mai và hào sâu được bố trí ở các của thành khiến các cuộc tấn công vào thành phố gặp rất nhiều khó khăn. Các cửa thành của Acre được làm bằng gỗ chắc chắn và được án ngữ bởi các góc thành chết nguy hiểm.

Cuộc vây hãm bắt đầu

Bản đồ Acre năm 1291.

Ngày 5 Tháng Tư năm 1291, lực lượng của Khalil đã dàn trận trước cửa thành Acre.[22] Quân đội của Hama hạ trại của họ trước mặt tháp Templar, trong khi quân đội Ai Cập hạ trại kéo dài dọc các bức tường của Montmusard[23] cho tới vịnh Acre.[24] Lều chính của Sultan được trên một ngọn đồi nhỏ gần bờ biển, trước mặt của tháp Tower of the Legate. Ngày 06 tháng 4, các máy bắn đá bắt đầu ném đá và lửa vào các bức tường của Acre. Trong tám ngày liên tiếp, các bức tường phải chịu một sự tàn phá nghiêm trọng và quân đội hai bên đụng độ thường xuyên trong các đợt công thành. Vào ngày thứ tám, người Hồi giáo thiết lập các chướng ngại vật và bắt đầu di chuyển gần hơn về phía thành phố, sử dụng các tâm lá chắn cho đến khi đến được dưới chân các bức tường. Carabohas[25] đã được sử dụng để tấn công các bức tường thành. Mặc dù liên tục nhận được quân tiếp viện từ Síp tới bằng đường biển, nhưng người Pháp đã cho rằng họ không có đủ sức mạnh để chống lại quân đội của Khalil. Ngày 15 Tháng Tư, lợi dụng ánh trăng, Các hiệp sĩ Templar, do Jean Grailly và cháu nội Otto chỉ huy, đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào doanh trại của quân Hama, nhưng những con ngựa của họ bị mắc vào những sợi dây thừng lều của người Hồi giáo và họ đã bị bắt, trong hki nhiều người khác dã bị giết. Một cuộc tấn công khác sau một vài ngày, và lợi dụng sự che chở của bóng tối bởi các hiệp sĩ Cứu Tế cũng kết thúc tồi tệ. Ngày 5 tháng 5, hy vọng đã được hồi sinh khi Henry II của Síp đến với các lực lượng của mình trên 40 tàu chiến. Nhưng chỉ ngay sau đó, Henry cũng đã bị thuyết phục về sự bất lực của mình trước tình thế hiện nay.

Đàm phán

Người Pháp gửi các sứ giả[26] tới chỗ của Khalil Al-Ashraf và kính cẩn quỳ gối chào ông ta. Khalil đã hỏi họ có phải họ mang đến cho ông ta chìa khóa của Acre, nhưng các sứ giả đã trả lời rằng thành phố không thể đầu hàng dễ dàng như vậy và rằng họ chỉ đến để cầu xin lòng thương xót của Sultan đối với những người dân nghèo, và rằng người Pháp sẵn sàng chấp thuận bất kỳ sự bất bình đẳng nào để khôi phục lại thỏa thuận ngừng bắn từng được ký kết. Sultan Khalil đã hứa với các sứ giả bảo vệ mạng sống cho tất cả mọi người trong thành phố nếu người Pháp hạ vũ khí và hai tay dâng Acre cho ông một cách hòa bình, nhưng các sứ giả đã nhanh chóng từ chối lời đề nghị của ông.[27] Trong khi các sứ giả còn đang ở trong lều để đàm phán, thì một viên đạn đá từ trong thành phố bắn trúng vào khu đất gần doanh trại trại của Sultan. Khalil cho rằng việc quân Thập Tự tấn công trong thời gian đàm phán là hành động đáng xấu hổ, Sultan vô cùng tức giận và ra lệnh hành quyết hai sứ giả, nhưng Emir Sanjar al-Shuja đã cầu xin cho họ và các sứ giả trở về thành phố an toàn.

Các tòa tháp bắt đầu đổ xuống

Từ ngày 08 tháng 5, các tòa tháp của Acre bắt đầu sụp đổ từng cái một. Ngày 18 tháng 5 (04 tháng 5 theo ghi chú của Michaud), vào buổi sáng sớm trước lúc mặt trời mọc, Sultan đã ra lệnh tổng tấn công từ tất cả các phía, kèm theo là âm thanh của tiếng kèn và trống đặt trên 300 con lạc đà.[28][29] Khi các Saracens rút lui trong hoàng hôn, vua Henry đã cơ hội trốn thoát cùng với các hiệp sĩ và 3000 binh sĩ.[30]

Các cuộc tấn công được nối lại vào buổi sáng, khi nhận thấy các dội quân phòng thủ để ngỏ cửa Thánh Anthony, Khalil đã ra lệnh phá thủng của thành để các kỵ binh có thể tiến vào, ngay sau đó kị binh Mamluk xung phong vào thành.

Các lực lượng Hồi Giáo tiến vào tới tháp Accursed[31] và buộc các đơn vị đồn trú phải rút lui về phía bên trong của cửa Thánh Anthony. Tất cả các cuộc phản công của hiệp sĩ Cứu Tế và Templar để chiếm lại tòa tháp đều vô ích. Vua Henry II và các trưởng lão đã lên tàu galley của mình và chạy trốn khỏi Acre.[32] William của Beaujeu, Trưởng lão Đền Thờ, và Matthew của Clermont đều bị thiệt mạng. Các lực lượng Hồi giáo hỗn chiến với người Pháp trên các đường phố và ngõ hẻm của Acre, sau đó chuyển thành một sự hỗn loạn khủng khiếp khi những người dân chạy trốn về phía biển. Có bao nhiêu người dân đã thiệt mạng trên đất liền và trên biển đến nay vẫn chưa được biết rõ.[33][34][35]

Sự sụp đổ của thành phố

Trước khi màn đêm buông xuống vào ngày thứ sáu 18 tháng 5 năm 1291,[36] Acre đã hoàn toàn nằm trong tay của người Hồi Giáo sau hơn 100 năm do quân Thập Tự người Pháp chiếm đóng, trừ một pháo đài của tổ chức Hiệp sĩ Templar ở bờ biển phía tây thành phố. Sau một tuần vây hãm, Sultan Al-Asraf Khalil đã đàm phán với Peter de Severy, người quản lý Templar, đồng ý rằng các hiệp sĩ Templar và tất cả mọi người ẩn nấp bên trong pháo đài sẽ được an toàn tới Cyprus, nhưng các lực lượng của Sultan được gửi đến pháo đài để giám sát việc di tản dường như quá vô kỷ luật, không thể xử lý vấn đề hỗn loạn và đã bị các Templar tàn sát. Dưới sự che chở của bóng tối, Thibaud Gaudin, Trưởng lão mới của Đền Thờ, đã đánh chiếm lại pháo đài Sidon với một vài người trung thành. Vào buổi sáng hom sau, khi Peter de Severy đến chỗ của Sultan để hội kiến về một cuộc đàm phán mới, Sultan đã ra lệnh bắt giữ họ lại và chặt đầu họ để trả thù cho hành động của các Templar bên trong pháo đài. Khi các Templar đang bị bao vây trong pháo đài nhìn thấy những gì xảy ra với Peter de Severy, họ đã tiếp tục cuộc chiến. Ngày 28 tháng 5, Sultan đã gửi khoảng 200 quân tới để tấn công pháo đài. Pháo đài sụp đổ, gần như tất cả mọi người bên trong đều bị thiệt mạng. Tất cả các hiệp sĩ Templar đã bị giết chết, trong hki một nửa quân của Sultan cũng tử trận.[37]

Tin tức về cuộc chinh phục Acre thành công nhanh chóng được gửi tới Damascus và Cairo. Sultan Al-Ashraf Khalil tiến vào thành phố Damascus với các biểu tượng của người Pháp và quân Thập Tự bị vứt la liệt ở dưới đường phố như một dấu hiệu cho sự thất bại của Người Thiên chúa giáo. Sau khi ăn mừng chiến thắng của mình tại Damascus, Khalil quay trở lại đô thành Cairo, cũng đang trong không khí hân hoan tưng bừng.[38] Ông ra lệnh cho thả Philip Mainebeuf và những tùy tùng đã đến Cairo trước cuộc bao vây.[39]

Liên quan